Số liệu thống kê gần đây cho thấy năng lực của các doanh nghiệp (DN) nội địa (với hơn 97% là doanh nghiệp nhỏ) nhìn chung còn yếu để có thể tham gia vào chuỗi cung ứng cho các nhà máy FDI.
Không những vậy, chỉ có 36% trên tổng số DN Việt Nam tham gia vào mạng lưới sản xuất theo định hướng xuất khẩu, so với gần 60% ở Malaysia và Thái Lan.
Ngoài ra, chỉ có 21% các DN nội tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, và sự tham gia của các DN nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước khác.
Thiếu vốn, vướng chính sách
Các chuyên gia phân tích từ Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham) lưu ý việc cải thiện cơ sở hạ tầng cả về phần cứng và phần mềm có thể giúp tăng tỷ lệ này lên đáng kể.
Theo đó, phát triển kinh tế trong tương lai sẽ phụ thuộc vào khả năng hội nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu để DN Việt Nam có thể hưởng lợi từ các nguồn vốn và công nghệ trên thế giới, tiếp cận thị trường toàn cầu.
Một vấn đề đáng lo nhất hiện nay là khi các dòng thuế về 0% theo TPP hay các FTA, nguy cơ “chết yểu” của DN nội địa sẽ hiển hiện nếu cứ khư khư với công nghệ cũ, làm cho sức cạnh tranh hàng hoá kém so với hàng ngoại.
Trong khi đó, tiến độ đổi mới công nghệ của các DN nội hiện nay được đánh giá là quá chậm do nguồn vốn hạn hẹp, chính sách hỗ trợ còn nhiều vướng mắc. Bằng chứng là trong một thăm dò gần đây, có tới 90% trong tổng số 8.000 DN được điều tra thăm dò gần đây cho biết chưa có chiến lược cải tiến công nghệ do gặp khó khăn về vốn.
Điều đáng nói, đến cuối năm 2015, Bộ Tài chính mới bố trí cho Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia nguồn vốn hơn 100 tỷ đồng. Còn Ban quản lý Quỹ lại phải tốn thời gian đi tìm hiểu nhu cầu đổi mới công nghệ của DN ở hơn 30 địa phương. Điều này làm cho việc giải ngân nguồn vốn từ Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia khá chậm.
Theo Giám đốc Sở Công thương Tp.HCM Phạm Thành Kiên, Chính phủ cần sửa đổi quy định về cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ tại DN để tái cấu trúc kinh tế.
Ông Kiên cho rằng chính sách khuyến khích doanh nghiệp trích lập Quỹ Phát triển khoa học công nghệ tại DN chưa hấp dẫn, cơ chế sử dụng Quỹ khoa học công nghệ quốc gia còn rườm rà. Thị trường khoa học công nghệ chưa phát triển, chưa trở thành động lực thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, phát minh công nghệ để chuyển giao.
Trong chính sách hỗ trợ công nghệ cho DN cần quy định chi tiết lĩnh vực ưu tiên phát triển
Cần tháo gỡ
Chính vì vậy, trong năm 2016, Sở Công thương Tp.HCM sẽ nắm bắt và tháo gỡ khó khăn cho DN, trong đó có đổi mới công nghệ thông qua việc giới thiệu và hướng dẫn cho DN tiếp cận các cơ chế, chính sách mới để thúc đẩy đổi mới công nghệ.
Điều đáng nói, có nhiều ý kiến lưu ý các văn bản luật về tài chính đều có ưu tiên để lập quỹ khoa học công nghệ nhưng vấn đề này chỉ làm được ở những DN lớn, còn các DN nhỏ thì hầu như rất hạn chế, khiêm tốn.
Riêng trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản Việt – một dẫn chứng điển hình về yếu kém công nghệ, theo lãnh đạo Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, thực tế nhiều sản phẩm chậm được cải tiến, chậm thay đổi mẫu mã, giá thành cao… khó cạnh tranh được với hàng ngoại nhập chính là do thiếu vắng nghiên cứu và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Hiệp hội này đề nghị, để quá trình này diễn ra nhanh, cần có những cơ chế ưu đãi như: Nhà nước mua các đề tài nghiên cứu khoa học (đặc biệt là khoa học ứng dụng) với giá ưu đãi, sử dụng công cụ thuế đối với những DN áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Cũng theo Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, cần nâng cao vai trò và năng lực của các Trung tâm tư vấn hỗ trợ trong việc giới thiệu và áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất (ở cả Trung ương và địa phương). Đồng thời, có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn việc việc vi phạm bản quyền và sản xuất hàng nhái.
Trong một tham luận gần đây về nông nghiệp, Ts Phạm Nguyên Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại (Bộ Công Thương), nhận định các xu hướng phát triển của nền nông nghiệp thế giới xoay quanh việc làm gia tăng giá trị hàng nông sản, kể cả hàng nông sản xuất khẩu, đều dựa trên cơ sở ứng dụng các kết quả nghiên cứu lĩnh vực khoa học – công nghệ.
Lấy bài học xuất khẩu gạo thành công từ Thái Lan, Ts Phạm Nguyên Minh cho biết các xu hướng cần học hỏi như: Tăng cường nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển khai; cải tiến kỹ thuật chế biến, bảo quản và vận chuyển nông sản.
Hơn nữa, nên phát triển mạnh công nghệ sinh học nông nghiệp, coi trọng việc mở rộng giao lưu, hợp tác khoa học - kỹ thuật trên lĩnh vực nông nghiệp trên toàn thế giới.
Ngoài ra, một vấn đề cũng được giới chuyên gia đặt ra trong chính sách hỗ trợ công nghệ cho DN là cần quy định chi tiết lĩnh vực ưu tiên phát triển, danh sách công nghệ và thiết bị kỹ thuật nào cần khuyến khích thay đổi.
Với Quỹ phát triển khoa học công nghệ quốc gia, lẽ nào không hiểu những bất cập hiện nay? Nhất là khi các DN nội đang cần sự hỗ trợ kinh phí kịp thời trong thực hiện đăng ký và bảo hộ, chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm có sự đầu tư công nghệ mới.
Thế Vinh