Những ngày gần đây, thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (vốn FDI) đón nhận nhiều thông tin tích cực. Theo Bộ KH&ĐT, tính đến ngày 20/9/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài đạt 22,15 tỷ USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2020.
Thêm nhiều dự án tỷ USD
Vốn FDI tăng trong bối cảnh dịch COVID-19 là nhờ vào đóng góp của một số dự án lớn trong 9 tháng đầu năm 2021. Đơn cử như dự án Nhà máy điện LNG Long An I và II (Singapore), tổng vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD với mục tiêu truyền tải và phân phối điện, sản xuất điện tại Long An (cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ngày 19/3/2021).
Giữ niềm tin với nhà đầu tư nước ngoài bằng việc kiên quyết loại bỏ các thủ tục hành chính làm đứt gãy chuỗi cung ứng từ Trung ương tới địa phương. |
Hay như dự án LG Display Hải Phòng (Hàn Quốc) điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 2,15 tỷ USD (trong đó điều chỉnh tăng 1,4 tỷ USD ngày 30/8/2021 và tăng 750 triệu USD ngày 4/2/2021). Dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II (Nhật Bản) có tổng vốn đăng ký trên 1,31 tỷ USD với mục tiêu xây dựng một nhà máy nhiệt điện nhằm đáp ứng nhu cầu cung cấp điện cho lưới điện khu vực và hệ thống điện quốc gia tại Cần Thơ (cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ngày 22/1/2021)...
Tổng giám đốc Tổ hợp Samsung Việt Nam Choi Joo Ho đánh giá Việt Nam vẫn là điểm đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Trong thời gian tới, Samsung Việt Nam dự kiến tiếp tục đầu tư thiết bị sản xuất cho 6 nhà máy và đa dạng hoá các hạng mục sản xuất như thiết bị 5G hay máy tính xách tay; đồng thời đầu tư nâng cao vị thế kinh doanh tại Việt Nam của công ty thành cứ điểm nghiên cứu và phát triển (R&D) chiến lược thông qua việc xây dựng Trung tâm R&D.
Trong khi đó, Tổng giám đốc Nestlé Việt Nam Binu Jacob khẳng định, dù gặp phải những khó khăn nhưng vẫn công ty tiếp tục đầu tư 132 triệu USD vào nhà máy tại Việt Nam trong 2 năm để tăng gấp đôi công suất sản xuất cà phê hòa tan phục vụ xuất khẩu và để trở thành trung tâm sản xuất các sản phẩm thực phẩm dạng lỏng chuyên cung ứng cho thị trường xuất khẩu ở khu vực châu Á và Australia.
Mới đây, tại Mỹ, ông Johnathan Hạnh Nguyễn, Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Liên Thái Bình Dương (IPPG) đã ký kết hợp tác đầu tư với 3 đối tác lớn của Mỹ để xúc tiến thực hiện 45 dự án trọng điểm đã nghiên cứu triển khai tại Việt Nam với dự kiến tổng vốn đầu tư lên tới hàng trăm tỷ USD.
Có thể thấy, những dự án FDI từ vài trăm triệu đến vài tỷ USD được kỳ vọng sẽ tác động rất lớn tới hoạt động kinh tế - xã hội của Việt Nam. Chia sẻ với VnBusiness, ông Nguyễn Văn Toàn, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, đánh giá những con số trên cho thấy dù dịch bệnh nhưng Việt Nam vẫn giữ "phong độ" thu hút vốn ngoại. Đặc biệt, nếu như trước đây, chúng ta luôn lo lắng, cũng như cảnh báo tình trạng quy mô vốn FDI ngày càng nhỏ, có dự án chỉ vài triệu USD, thì trong bối cảnh dịch bệnh, Việt Nam lại thu hút được thêm nhiều dự án quy mô lớn.
Luôn cầu thị, lắng nghe nhà đầu tư
"Thời gian gần đây, nhiều ý kiến lo ngại nhà đầu tư nước ngoài rời bỏ Việt Nam khi dịch bệnh diễn biến phức tạp tại các trung tâm kinh tế. Tuy nhiên, tôi cho rằng nhận định này là hơi sớm", ông Toàn chia sẻ.
Theo Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, đơn hàng và đầu tư là hai pha khác nhau: "Đơn hàng dịch chuyển thì rất dễ làm nhưng còn đầu tư, nhà đầu tư bao giờ cũng nhìn nhận về triển vọng lâu dài. Tất nhiên, nói gì thì nói, để đón nhận thêm nhiều doanh nghiệp nước ngoài lớn tới Việt Nam, hay nói cách khác là "đại bàng" tới "làm tổ" thì Việt Nam cũng phải có môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn, trong đó việc đơn giản các thủ tục hành chính, tạo điều kiện về đất đai, hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... vẫn là những yếu tố then chốt".
Mặt khác, PGS.TS. Bùi Quang Tuấn, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng: Việt Nam cần tiếp tục tạo thuận lợi về môi trường kinh doanh để thu hút các doanh nghiệp FDI theo hướng chọn lọc, hướng tới những dự án có tính lan tỏa lớn (liên kết ngành) cho các doanh nghiệp trong nước (nhất là công nghiệp hỗ trợ), đi liền chuyển giao công nghệ phù hợp và khuyến khích FDI kéo doanh nghiệp trong nước tham gia hoặc tăng vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Đồng thời, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhấn mạnh tới vai trò kiến tạo của Chính phủ. Theo đó, Chính phủ cần kịp thời lắng nghe những khó khăn, phản ánh và nguyện vọng của các nhà đầu tư nước ngoài, vì điều này gia tăng thêm niềm tin cho nhà đầu tư, cũng như ngăn chặn ý định chuyển hoạt động của họ sang nước khác.
Trong khi đó, PGS.TS. Phạm Hồng Chương, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân dẫn lại kiến nghị của các Hiệp hội doanh nghiệp FDI gửi Thủ tướng và lãnh đạo các địa phương liên quan tới phản ánh 20% đơn hàng đã chuyển khỏi Việt Nam. Theo đó, ông cho rằng Việt Nam cần đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, kiểm soát dịch bệnh để nhanh chóng xóa bỏ giãn cách xã hội, đảm bảo vận chuyển và lưu thông hàng hóa thông suốt, áp dụng cơ chế "thẻ xanh".
Hơn nữa, các doanh nghiệp FDI đã nỗ lực duy trì sản xuất nhưng vẫn khó khăn về lao động và điều kiện phòng chống dịch an toàn. Năng suất giảm nên các doanh nghiệp có nguy cơ bị mất khách hàng do các khách hàng có thể đã tìm kiếm nguồn cung mới.
Theo đó, PGS.TS. Phạm Hồng Chương kiến nghị Việt Nam cần kiên quyết loại bỏ các thủ tục hành chính làm đứt gãy chuỗi cung ứng từ Trung ương tới địa phương, không xử lý vội vàng không tuân theo quy luật kinh tế thị trường gây mất niềm tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Trên thực tế, việc thu hút vốn đầu tư quan trọng song giữ chân họ còn quan trọng hơn rất nhiều. Nếu doanh nghiệp FDI bị bị thiệt hại quá nhiều do dừng sản xuất, nhiều doanh nghiệp sẽ buộc phải rút khỏi thị trường. Trường hợp đó sẽ dẫn tới đình đốn ngành công nghiệp sản xuất của Việt Nam, kéo theo đó là giá trị sản xuất công nghiệp và giá trị kinh ngạch xuất khẩu sẽ sụt giảm đáng kể, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng tới thu ngân sách nhà nước. Những vấn đề về thất nghiệp, gánh nặng chi an sinh xã hội của Nhà nước sẽ gia tăng đáng kể.
Lê Thúy