Ts. Olivier Lepoller, chuyên gia của CIRAD cho biết, Dự án “Đô thị - Định hướng đổi mới cho hệ thống nông nghiệp thực phẩm bền vững” với cách tiếp cận đa tác nhân, mỗi tác nhân theo quan điểm riêng. Dự án đã và sẽ xây dựng mạng lưới kết nối những người kinh doanh thực phẩm online và người tiêu dùng để cùng chia sẻ kinh nghiệm. Dự án cũng đúc kết kinh nghiệm, phổ biến và nhân rộng tới các đơn vị đang tham gia thương mại điện tử, đồng thời hỗ trợ tư vấn cho các cơ quan chức năng trong việc đưa ra những chính sách cho đổi mới quản lý kinh doanh thực phẩm trên mạng xã hội.
Việc sử dụng internet và các ứng dụng trực tuyến để mua thực phẩm đang phát triển với tốc độ rất nhanh, 20-30%/năm (Ảnh: Internet) |
Ts. Nguyễn Thị Tân Lộc, Trưởng Bộ môn Nghiên cứu Kinh tế thị trường của Viện Nghiên cứu Rau quả cho biết, trên thế giới, việc sử dụng internet và các ứng dụng trực tuyến để mua thực phẩm đang phát triển với tốc độ rất nhanh, 20-30%/năm, trong khi giao dịch internet nói chung tăng 12,5%/năm.
Năm 2018, doanh số kinh doanh trực tuyến tại Việt Nam đứng thứ 6 về doanh thu trên toàn thế giới, dự kiến sẽ đạt 10 tỷ USD vào năm 2020 (chiếm 5% tổng thị trường bán lẻ). Năm 2019, các tác nhân chính trong thị trường mua bán trực tuyến tại Việt Nam là: Shopee.vn, Adayroi (trang web thương mại điện tử của Vingroup), Sendo.vn, Lazada.vn, Lotte.vn… Khảo sát của Viện Nghiên cứu Rau quả cho thấy, tại Hà Nội và TP.HCM, 67% số người được hỏi cho biết họ từng mua hàng trực tuyến, với 47% trong số đó từng mua qua Facebook. Các kênh thương mại xã hội đang được sử dụng ngày càng phổ biến ở Việt Nam để bán thực phẩm tươi sống và chế biến. Các công ty thực phẩm quy mô lớn thường vận hành các trang web của riêng họ, trong khi các nhà sản xuất và bán hàng quy mô nhỏ sử dụng Facebook hoặc Zalo để tiếp cận người tiêu dùng thành thị. Nhiều người đã có việc làm ở những lĩnh vực khác cũng lấy việc bán thực phẩm qua mạng làm nghề tay trái.
Theo khảo sát, độ tuổi của người tham gia bán hàng trực tuyến chủ yếu từ 25-45 tuổi, hầu hết đối tượng được khảo sát cho biết đã có thời gian bán hàng trực tuyến từ 1-3 năm; một số người đã tham gia hoạt động này từ 4 -5 năm. Nữ giới chiếm 2/3 trong tổng số người tham gia bán hàng trực tuyến. Nam giới bán hàng trực tuyến thường có cửa hàng cố định, hoặc công ty. Nhiều người kinh doanh trực tuyến xuất phát từ khai thác lợi thế của nghề nghiệp, thông qua công việc chính của họ có liên hệ về nguồn hàng hoặc khu vực sản xuất sản phẩm, từ đó trở thành đầu mối cung cấp, phân phối sản phẩm. Những người bán hàng trực tuyến có cửa hàng đều xác định bán hàng trực tuyến là hướng đi trong tương lai. Đơn cử như Rau 4T áp dụng kinh nghiệm từ Hàn Quốc với 50% sản phẩm bán tại cửa hàng và 50% sản phẩm bán trực tuyến qua Zalo, Messenger.
Ts. Nguyễn Thị Tân Lộc nhận xét, kinh doanh thực phẩm trực tuyến có nhiều thuận lợi: tiết kiệm chi phí (thuê địa điểm, nhân viên, điện, nước…); tương tác với khách hàng nhanh chóng, không bị giới hạn bởi khoảng cách địa lý. Mô hình này cũng linh hoạt về thời gian kinh doanh, tận dụng được lợi thế của cá nhân trong việc tiếp cận những đặc sản quê hương, nguồn hàng từ bạn bè, người thân… Tuy nhiên, kinh doanh thực phẩm yêu cầu cao về điều kiện bảo quản và vệ sinh, đặc biệt với thực phẩm tươi sống cần giao nhanh cho khách hoặc cần thực hiện sơ chế, là những trở ngại đối với bán hàng trực tuyến.
Khảo sát khách hàng cho thấy, đối tượng mua thực phẩm trực tuyến chủ yếu là phụ nữ trẻ, có công việc ổn định, mức lương khá và có trình độ văn hóa cao. Lý do họ lựa chọn kênh thương mại này là vì bận rộn, không có thời gian đi mua thực phẩm ở các điểm bán. Nhiều người coi mua hàng online như một hình thức giải trí vì trên các ứng dụng thương mại có nhiều hình ảnh, video thú vị; không ít người bị thu hút bởi các chương trình khuyến mại.
Tuy nhiên, nhiều người mua hàng qua mạng phàn nàn: Người bán và người mua không gặp nhau, chỉ giao dịch qua mạng; sản phẩm khi đến tay người mua bị tính phí vận chuyển, nên thường đắt hơn khi mua ở chợ. Nhiều người kinh doanh lợi dụng việc bán hàng trên các trang mạng xã hội (không có sự kiểm soát) để bán sản phẩm kém chất lượng. Nhiều trường hợp, người vận chuyển gom nhiều đơn hàng để vận chuyển, nên thời gian giao hàng bị chậm trễ, khâu bảo quản không tốt dẫn đến hàng thực phẩm bị hư hỏng hoặc nhiễm vi sinh vật, nguy cơ mất an toàn thực phẩm.
Hiện, thị trường kinh doanh thực phẩm trên mạng xã hội đang bị bỏ lửng, dường như chưa có sự kiểm soát của bất kỳ cơ quan nào, kể cả về giá cả và chất lượng sản phẩm. Người tiêu dùng như bị “lạc” trong “ma trận” sản phẩm, mất nhiều thời gian để lựa chọn sản phẩm mà mình cần.
Thạc sĩ Đặng Đình Chiến, chuyên gia về chỉ dẫn địa lý cho rằng, thông qua mạng xã hội, người nông dân sản xuất có thể liên kết đưa hàng trực tiếp tới người tiêu dùng cuối cùng, hoặc giới thiệu sản phẩm của mình trên các trang thương mại điện tử. Cơ hội cho những sản phẩm đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý khi đưa lên trang thương mại điện tử rất lớn. Tuy vậy, hiểu biết của người tiêu dùng về chỉ dẫn địa lý và truy xuất nguồn gốc còn rất hạn chế. Trong khi đó, Nhà nước mới chỉ làm tốt khâu đăng ký bảo hộ sản phẩm, nhưng vấn đề truy xuất nguồn gốc chưa làm tốt ở các địa phương.
Ông Chiến khuyến cáo, người bán hàng cần cung cấp thông tin đầy đủ về sản phẩm cho khách hàng, có phản hồi nhanh khi người mua khiếu nại. Với nhà kinh doanh, ngoài năng lực bán hàng, cần có năng lực sơ chế, chế biến nông sản, thực phẩm.
TS. Olivier Lepoller cho rằng, việc mua thực phẩm trực tuyến bản thân không phải là sự đổi mới, mà là sự đổi mới trong hành vi, thực hành trong tiêu dùng. Các tác nhân tham gia mua-bán thực phẩm trực tuyến có sự tương tác ở mức độ cao, thuận tiện và tiết kiệm thời gian.
“Việc sử dụng các ứng dụng trực tuyến để mua thực phẩm có thể tác động tới nhiều khía cạnh của sự phát triển bền vững: an toàn thực phẩm, môi trường, nguồn gốc sản phẩm, thực hành sản xuất tốt.... Phương thức kinh doanh này sẽ dẫn đến sản xuất tốt hơn, giảm khoảng cách về kinh tế, nhận thức và địa lý chuỗi cung ứng và sự tin tưởng cao hơn trong các hệ thống thực phẩm”, ông Olivier Lepoller nhận định.
Chu Khôi