Thời gian gần đây, nhiều tranh cãi về nguyên nhân dẫn tới việc than “múc” lên không bán được, gây tồn đọng hơn 12 triệu tấn, trong khi đó lượng than nhập khẩu (NK) cũng không ngừng tăng, vượt gấp 3 lần kế hoạch được Bộ Công Thương phê duyệt.
Tại tọa đàm “NK than và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia”, lãnh đạo TKV đã thẳng thắn chỉ ra nhiều tồn tại, mà theo vị này chính là nguyên nhân dẫn tới việc hàng chục triệu tấn “vàng đen” đang bị tồn kho.
Nhập khẩu vượt gấp 3 lần chỉ tiêu
Theo dự báo của Bộ Công Thương, trong năm 2016, Việt Nam sẽ NK hơn 3,1 triệu tấn than, nhưng số liệu NK than của Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính) tính đến tháng 8 đã lên đến 9,7 triệu tấn, vượt gấp 3 lần kế hoạch đề ra.
Trong đó, 3 thị trường cung ứng than nhiều nhất cho Việt Nam là: Nga, cung ứng 2,8 triệu tấn, kim ngạch hơn 179 triệu USD; Trung Quốc, 1,4 triệu tấn, kim ngạch 100 triệu USD và Indonesia, 1,8 triệu tấn, kim ngạch đạt 80 triệu USD…
Chỉ ra nguyên nhân, ông Biên cho rằng nguyên nhân khách quan do những năm gần đây giá than thế giới giảm sâu và kéo dài. Bên cạnh đó, liên quan đến yếu tố kỹ thuật, ngành than ngày càng khai thác xuống sâu dưới lòng đất. Nếu như năm 1995 chúng ta bóc 3 - 4 m3 đá đã có than, đến nay là 11m3 mới có than. Việc khai thác không đáp ứng được nhu cầu, trong khi nhiều nhà máy nhiệt điện than đi vào vận hành dẫn đến nhu cầu đối với mặt hàng này tăng cao.
Ông Biên cho biết, các DN NK chủ yếu là Tổng công ty Đông Bắc và TKV nhập bổ sung từ các thị trường như Trung Quốc, Nga, Australia… Sau đó phối trộn với than chất lượng thấp hơn trong nước, để bán cho các nhà máy nhiệt điện.
“Việc NK này trong bối cảnh giá thế giới giảm sâu, cũng tạo điều kiện cho các đơn vị tăng chiết khấu, giảm giá cho khách hàng”, ông Biên khẳng định.
|
Tình hình SX-KD của TKV hiện hết sức khó khăn
Ngoài ra, ông Biên cũng cho hay, việc NK than là hoàn toàn bình thường, bởi trước đây, các nước như Hàn Quốc, Nhât Bản cũng đã XK, nhưng nay vẫn NK khá lớn, như Hàn Quốc trên 100 triệu tấn/năm, Trung Quốc dù XK cao nhưng NK cũng nhiều.
Trước ý kiến cho rằng con số NK than tăng hơn 3 lần, do ngành Công Thương không lường trước nên “vỡ trận”, ông Nguyễn Khắc Thọ - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng (Bộ Công Thương) cho biết: “Chỉ tiêu NK 3 triệu tấn than mới chỉ tính cho ngành điện mà chưa tính đến những ngành khác, như: xi măng, phân bón, sắt thép… Vì vậy, nếu tính cho nhu cầu than của nền kinh tế, thì việc NK 9,7 triệu tấn là gần bằng nhau”.
Trong 9 tháng qua, sản lượng than nguyên khai thực hiện toàn tập đoàn đạt 26,7 triệu tấn, bằng 67% kế hoạch năm; sản lượng than tiêu thụ đạt 25,7 triệu tấn, tương đương gần 80% kế hoạch. Tuy nhiên, than tồn kho đang ở mức khá cao, lên tới 10,8 triệu tấn; trong khi lại thiếu than sạch phục vụ các hộ tiêu thụ trong nước.
Sẽ tái cơ cấu ngành than
Tại tọa đàm, ông Biên cho biết, tình hình SX-KD của TKV hiện hết sức khó khăn, dù toàn ngành đã và đang thực hiện các giải pháp tiết giảm chi phí, cũng như nâng cao quản trị DN để tiết kiệm tối đa.
Hiện, TKV đã có đề án nâng cao hiệu quả SX-KD, tăng sức cạnh tranh của ngành than đã đạt được kết quả lớn. Tăng năng suất lao động từ 1.200 tấn/người/năm, mục tiêu đến năm 2016 đạt 1.500 tấn/người/năm.
Ông Nguyễn Khắc Thọ cho biết, để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh năng lượng, cùng với việc yêu cầu TKV giảm chi phí để cạnh tranh trên thị trường, vẫn cần tiếp tục NK than cho các dự án nhiệt điện là nhiệm vụ hết sức quan trọng để bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Theo Quy hoạch, Việt Nam sẽ phải NK than với khối lượng lớn từ sau năm 2017 và tăng mạnh từ năm 2020, chủ yếu là than cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện, bao gồm cả than Antraxit và than nhiệt năng.
Tại buổi tọa đàm, ông Thọ cũng cho biết, Bộ Công Thương đã công bố điều chỉnh Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030.
Theo quy hoạch, tổng nhu cầu vốn đầu tư cho ngành than đến năm 2030 khoảng 269.000 tỷ đồng, bình quân 17.934 tỷ đồng/năm. Nguồn vốn này chủ yếu tập trung cho đầu tư mới và cải tạo mở rộng... được thu xếp từ các nguồn tự có, vốn vay thương mại, vay ưu đãi và huy động qua các kênh chứng khoán...
Ông Thọ khẳng định, quan điểm phát triển tại quy hoạch này là khai thác, chế biến, sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm nguồn tài nguyên than của đất nước, đóng góp tích cực vào việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Đặc biệt, quy hoạch nêu rõ ưu tiên đáp ứng nhu cầu trong nước, giảm dần XK và chỉ XK các chủng loại than trong nước chưa có nhu cầu sử dụng.
Thanh Hoa