Điều này cho thấy trong 27 tỷ USD thu về từ sản phẩm xuất khẩu dệt may, chỉ dưới 8 tỷ USD là thuộc về doanh nghiệp dệt may Việt.
Phụ thuộc nguyên phụ liệu
Vì vậy, theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Thương mại, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sản phẩm cuối cùng của hàng dệt may nhưng lại nhập khẩu nhiều nguyên phụ liệu và đầu vào thông qua trung gian. Vì vậy, tuy đạt kim ngạch xuất khẩu cao, ngành dệt may vẫn tồn tại một số hạn chế lớn là tỷ lệ sản xuất nguyên liệu trong nước chưa cao.
Dệt may luôn trong tình cảnh phụ thuộc nguyên phụ liệu
Theo thống kê của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), kim ngạch xuất khẩu dệt may năm 2015 khoảng trên 27 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của ngành may chiếm 85% cơ cấu doanh thu. Tuy nhiên, 30% DN có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 70% doanh số, còn 70% DN Việt Nam chỉ chiếm 30% (trên dưới 8 tỷ USD).
Trong đó, 85% DN Việt Nam vẫn thực hiện theo phương thức gia công nên kim ngạch thực chỉ là trên dưới 2 tỷ USD, bởi giá gia công chỉ chiếm khoảng 25% giá thành sản phẩm.
Đồng thời, về vấn đề tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, hiện nay, mặc dù tăng trưởng xuất khẩu liên tục qua các năm nhưng hiệu quả xuất khẩu của ngành dệt mang còn thấp do tỷ lệ xuất khẩu hàng may mặc theo phương thức gia công CTM chiếm đến 60%, theo phương thức FOB (mua nguyên liệu, bán thành phẩm) chiếm 35% và chỉ khoảng 5% xuất khẩu theo phương thức ODM (thiết kế trên ý tưởng có sẵn, sản xuất).
Chính vì vậy, giá trị gia tăng của sản phẩm dệt may còn thấp, chỉ khoảng 30% so với kim ngạch xuất khẩu, tỷ suất lợi nhuận trên dưới 10% và nguyên phụ liệu nhập khẩu chiếm 70-80%.
Còn nhiều dư địa tăng trưởng
Đáng chú ý theo bà Thạc sỹ Đỗ Kim Chi, Viện Nghiên cứu Thương mại cho biết, Việt Nam có quy mô xuất khẩu sản phẩm dệt may đứng thứ 4 thế giới, sau Trung Quốc, Ấn Độ và Bangladesh, cung ứng trên 4% tổng hàng dệt may tiêu thụ trên toàn thế giới. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2015 đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 11,68%/năm.
Tuy nhiên cũng theo bà Chi, dù nhiều mặt hàng dệt may đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm qua, nhưng vẫn ít có sự cải thiện trong cơ cấu sản phẩm xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong năm 2015 so với năm 2011.
Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu 3 nhóm HS 61, HS 62 và HS63 chiếm 88% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành công nghiệp dệt may. Điều này cho thấy, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vẫn còn tập trung vào lĩnh vực may mặc, khả năng đa dạng hóa còn yếu kém cũng như cho thấy xu hướng chậm cải thiện khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp dệt Việt Nam.
Dự đoán về triển vọng xuất khẩu dệt may thời gian tới, bà Chi cho rằng, tăng trưởng kim ngạch dệt may của Việt Nam tại các thị trường nhập khẩu chủ yếu còn rất lớn. Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 1% tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của thị trường EU.
“Với FTA Việt Nam - EU được ký kết, thuế từ 12% về 0% sẽ tạo ra sức cạnh tranh lớn cho hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường EU. Còn tại thị trường Hoa Kỳ, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào Hoa Kỳ mặc dù luôn tăng từ 12 - 13%/năm, nhưng thực tế chỉ mới chiếm khoảng 9% tỷ trọng nhập khẩu của thị trường này”, bà Chi phân tích.
Bên cạnh đó, tại thị trường Nhật Bản, với mức tiêu thụ hàng may mặc hàng năm lên tới trên 40 tỷ USD, trong đó hơn 95% phụ thuộc vào nhập khẩu, bà Chi nhìn nhận đây là thị trường có tiềm năng lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu.
“Với các thỏa thuận thuế quan được ký kết theo TPP, xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên TPP có triển vọng tăng mạnh. Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á - Âu được ký kết tháng 5/2015 được kỳ vọng sẽ cải thiện đáng kể chính sách thuế, hải quan và tạo sức hấp dẫn lớn để các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường này”, bà Chi nhận định.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, về dư địa tăng trưởng từ nỗ lực nội tại thì hàng dệt may còn nhiều khả năng tăng trưởng trong thời gian tới khi mà còn có thể cải thiện để tăng thêm khoảng 30% về năng suất lao động, tăng thêm 20% tỷ lệ nội địa hoá qua việc phát triển mạnh hơn công nghiệp phụ trợ, tăng về chất lượng sản phẩm và nhất là tăng năng lực thiết kế thời trang nhằm chuyển phương thức xuất khẩu từ phương thức OEM (gia công đơn thuần) sang ODM (bán sản phẩm có cả thiết kế).
Vì vậy, trong bối cảnh chi phí lao động đã không còn lợi thế cạnh tranh, cần có chính sách khuyến khích sản xuất thiết bị đồng bộ trong dây chuyền sản xuất sản phẩm hỗ trợ dệt may. Tỷ lệ nội địa hoá thiết bị sẽ góp phần giảm thiểu giá thành của sản phẩm. Bên cạnh đó, cần tiếp tục nâng cao năng suất lao động. Đây cũng là giải pháp căn bản để hạn chế bớt những bất lợi về tỷ giá.
Nhật Linh