Theo đó, dự thảo, thông tư đưa ra quy định, các tổ chức tín dụng được thực hiện hoán đổi nợ thành vốn góp, mua cổ phần, nhưng phải đảm bảo các điều kiện: chỉ được thực hiện đối với nợ thuộc nhóm 5 hoặc nợ đã được xử lý bằng dự phòng rủi ro; tổng mức góp vốn, mua cổ phần dưới mọi hình thức không vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của ngân hàng thương mại, không vượt quá 60% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của công ty tài chính.
Ngoài ra, các tổ chức tín dụng phải tuân thủ các tỷ lệ bảo đảm an toàn trước và sau khi hoán đổi nợ thành vốn góp, mua cổ phần, trừ trường hợp đặc biệt khi các tổ chức tín dụng đang trong quá trình triển khai tái cơ cấu theo chỉ đạo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Nhiều nguy cơ
Trái với những kỳ vọng phá được tảng băng nợ xấu ngày càng lớn khi các chuyên gia ngành ngân hàng tỏ ra lo lắng về những nguy cơ: sở hữu chéo, bình mới rượu cũ, không hiệu quả… của dự thảo này.
Ts. Bùi Quang Tín cảnh báo nguy cơ nợ chồng thêm nợ. Theo Ts. Tín, giải pháp này không còn xa lạ bởi đã được nhiều nước áp dụng. Tuy nhiên, ở Việt Nam chỉ áp dụng cho nợ xấu thuộc nhóm 5. Thực tế, đây là nhóm nợ đã rơi vào tình trạng gần như đã mất khả năng chi trả. Như vậy, nếu quy định chỉ cho các TCTD tham gia hoán đổi nợ xấu ở nhóm 5 sẽ xảy ra nhiều nguy cơ.
Thứ nhất: Các doanh nghiệp kinh doanh ở nhiều lĩnh vực khác nhau như: đầu tư sản xuất xi măng, sắt thép, bán gạo. Trong khi đó, các TCTD không có sở trường trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp. Vậy thì, khi đã góp vốn vào doanh nghiệp nghĩa là các TCTD phải tham gia điều hành, quản trị doanh nghiệp đó, như vậy, liệu họ có đủ kinh nghiệm, đủ hiểu biết, đủ nguồn lực để điều hành, quản lý doanh nghiệp đó không?
Thứ hai, nếu muốn các doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động được, các TCTD phải tiếp tục đổ thêm vốn vào con nợ, doanh nghiệp sẽ phục hồi, họ sẽ thu được vốn. Tuy nhiên, chưa từng thấy một ngân hàng nào thành công bằng phương pháp xử lý nợ xấu theo cách đó.
Ts. Tín lý giải rằng hiện nay, hầu hết các DN thuộc nhóm 5 đều xuất phát từ khả năng quản trị kém, ngành đang gặp khó khăn hoặc thiếu vốn. Như vậy, việc các TCTD tiếp tục đổ thêm vốn vào đây là quá mạo hiểm, khó thu hồi được cả vốn cũ lẫn vốn mới.
Kỳ vọng phá "tảng băng" nợ xấu?!
“Khả năng thành công chỉ 10%” là đánh giá của Ts. Nguyễn Trí Hiếu. “Với nợ xấu tệ đến mức không thể thu hồi, đó là tài sản độc hại, mà lại chuyển thành vốn góp, trở thành tài sản sinh lời (đầu tư), điều này khiến cho sổ sách kế toán của ngân hàng trở nên rất đẹp. Điều này sẽ có lợi cho ngân hàng, họ sẽ không phải dành một khoản tiền lớn cho việc trích lập dự phòng. Thực chất đây chỉ là bình mới rượu cũ mà thôi”, Ts. Hiếu nhận xét.
Theo Ts. Hiếu, khi bản chất không hề thay đổi, mà người ta chỉ khoác một chiếc áo mới đẹp đẽ, nhưng bên trong vẫn mục ruỗng, vì DN đã quá thua lỗ, DN không thể trả cổ tức cho nhà đầu tư, thì chẳng giải quyết được bất kỳ vấn đề nào.
Về phần mình, chuyên gia tài chính ngân hàng, Ts. Lê Xuân Nghĩa lại lo ngại sở hữu chéo. Theo Ts. Nghĩa, hiện nay ở Việt Nam, không ít ngân hàng vẫn có nhiều công ty sân sau, quy định như vậy dễ tạo cớ hợp pháp để ngân hàng bơm tiền “nuôi” những DN kiểu này, lũng đoạn thị trường và tạo ra sự cạnh tranh méo mó với các DN không có được lợi thế do có ngân hàng chống lưng.
Thực tế, hiện nay công ty Mua bán nợ của Bộ Tài chính (DATC) cũng đã thực hiện việc chuyển nợ thành vốn góp và tham gia tái cơ cấu các DN khó khăn. Tuy nhiên, kết quả thu được không đáng kể.
Có sự hiểu nhầm nhất định?
Trước thông tin này, đại diện Ngân hàng Nhà nước cho rằng đang có sự hiểu nhầm nhất định. Đại diện Ngân hàng Nhà nước lưu ý, trong dự thảo có nêu rõ điều kiện: Các tổ chức tín dụng chỉ được thực hiện hoán đổi đối với nợ thuộc nhóm 5 hoặc nợ đã được xử lý bằng dự phòng rủi ro.
Tại văn bản giải trình, dự thảo nêu rõ: Các tổ chức tín dụng chỉ được hoán đổi loại nợ xấu xấu nhất, đã được thực hiện trích lập dự phòng rủi ro 100% theo quy định hiện hành, hoặc đã được xử lý bằng dự phòng rủi ro, đã đưa ra ngoại bảng và theo đó không còn nằm trong mục đích “làm đẹp” sổ sách.
“Điều này hoàn toàn khác với hiểu nhầm trong một số bình luận gần đây rằng, cứ nợ xấu là có thể chuyển thành vốn góp”, đại diện NHNN khẳng định. Với điều kiện trên, nợ xấu ở nhóm 5 phải được xử lý bằng dự phòng rủi ro. Phải tuân thủ tỷ lệ bảo đảm an toàn trước và sau khi hoán đổi nợ thành vốn góp, mua cổ phần, trừ trường hợp đặc biệt khi các TCTD đang trong quá trình triển khai tái cơ cấu theo chỉ đạo của Thống đốc.
Thực tế, Luật các tổ chức tín dụng 2010 cũng đã quy định ngặt ngèo đối với các tổ chức tín dụng muốn hoán đổi. Cụ thể, số nợ xấu hoán đổi đó phải nằm trong tổng mức góp vốn, mua cổ phần của một NHTM vào các DN, kể cả các công ty con, công ty liên kết của NHTM đó, không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của NHTM, không vượt quá 60% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của công ty tài chính. Đây là một trở ngại cho các ngân hàng.
Ngoài ra, mức góp vốn, mua cổ phần của một NHTM và các công ty con, công ty liên kết vào một DN ngoài ngành không được vượt quá 11% vốn điều lệ của DN nhận vốn góp. Quy định này sẽ hạn chế đối với vai trò của NHTM trong tham gia quản trị, điều hành và tái cơ cấu DN đó, cũng giới hạn mức độ số nợ hoán đổi được nếu thực hiện.
Thành Vinh