Thời gian qua, xã Sơn Bình mạnh dạn đưa nhiều giống cây trồng mới cho năng suất, chất lượng cao, có khả năng chống chịu dịch bệnh tốt; nhiều kỹ thuật canh tác tiên tiến được áp dụng (biện pháp IPM, hệ thống tưới nhỏ giọt, nuôi cá nước lạnh...) và cơ giới hóa vào các khâu của quá trình sản xuất.
Liên kết sản xuất cá nước lạnh
Qua đó, xã đã từng bước thay đổi tập quán canh tác của người dân và hình thành các vùng sản xuất tập trung theo hướng hàng hóa như: Vùng trồng dong riềng, trồng chè, cá nước lạnh. Những mô hình liên kết sản xuất đã hình thành, an toàn thực phẩm ngày càng được chú trọng trong sản xuất nông nghiệp nhằm phục vụ nhân dân nói chung và khách du lịch nói riêng.
Tiêu biểu như mô hình của HTX Sản xuất nông nghiệp và Dịch vụ du lịch Ngũ Chỉ Sơn (bản Chu Va 12) đầu tư xây dựng 99 bể nuôi cá rộng 6.000m2 mặt nước.
Mỗi lứa, HTX nuôi hơn 10 vạn cá hồi, cá tầm. Hàng ngày, các thành viên kiểm tra nhiệt độ nguồn nước. Khi thời tiết thay đổi, nhất là khi nhiệt độ cao làm nước nóng lên, HTX phải xả nhiều nước, sử dụng điện bơm thêm oxy, tạo độ mát cho cá không bị ngạt. HTX nhập thức ăn cho cá nước đúng chủng loại từ các nước: Phần Lan, Na Uy, Pháp, Úc và cho cá ăn đủ 3 bữa (sáng, trưa, chiều).
HTX Ngũ Chỉ Sơn giúp thành viên nâng cao đời sống nhờ nuôi cá nước lạnh theo hướng khoa học. |
Trên mỗi ao nuôi còn có hệ thống lọc rác thải và hệ thống xả nước nhằm bảo đảm môi trường sống tốt nhất cho cá. Điều kiện khí hậu phù hợp cùng với việc chăm sóc đúng kỹ thuật đã giúp cá sinh trưởng và phát triển tốt, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Hiện, lúc nào HTX cũng có cá nước lạnh thương phẩm sẵn sàng xuất bán. Theo tính toán, mỗi tháng, HTX bán ra thị trường 15 tấn cá tầm và 1,5 tấn cá hồi, trị giá 300 triệu đồng. HTX thu hút được 13 thành viên, đời sống của các hộ đều khá giả với mức thu nhập từ 6 - 15 triệu đồng/người/tháng.
Anh Giàng A Cua (ở bản Chu Va 8) nhiều năm gắn bó với HTX Ngũ Chỉ Sơn, cho biết từ khi tham gia HTX, anh nhận ra rằng muốn cá sống khỏe thì không thả quá nhiều cá trong một bể. Khi cá bơi lờ đờ, không linh hoạt, nổi đầu lên mặt nước, lười ăn thì phải tách bể luôn. Từ đó, tìm ra nguyên nhân để chăm sóc cá mau khỏe, chóng lớn.
Hỗ trợ giảm nghèo
Không chỉ phát triển nuôi cá nước lạnh, xã Bình Sơn còn khuyến khích người dân chuyển đất trồng ngô, lúa kém hiệu quả sang trồng dong riềng. Anh Lẩu Văn Tỉnh (bản Huổi Ke) cho biết với 4.000m2 trước đây gia đình anh chỉ trồng lúa 1 vụ, nhưng rất vất vả vì bị chuột ăn. Năm ngoái, được sự vận động của xã, gia đình chuyển sang trồng dong riềng, việc chăm sóc cũng đỡ vất vả. Cây dong có đầu ra thuận lợi vì trong huyện có nhiều HTX chế biến miến đến đặt mua tại chỗ.
Theo UBND xã, do đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao, để nâng cao thu nhập cho người dân góp phần giảm nghèo bền vững, Sơn Bình đã định hướng chuyển đổi một số diện tích đất kém hiệu quả sang trồng dong riềng. Đến nay, toàn xã có trên 29 ha dong riềng, tăng hơn 9 ha so với năm 2019, đặc biệt vụ mùa năm nay, người dân rất phấn khởi khi dong được mùa, được giá. Với giá bán tại chỗ khoảng 20 - 23 nghìn đồng/kg, người dân có thể thu về 12 - 15 triệu đồng/1.000m2.
Người dân bản Huổi Ke, xã Sơn Bình thu hoạch dong riềng. |
Với những hiệu quả từ cây dong riềng mang lại, những năm tới, xã Sơn Bình sẽ tiếp tục vận động nhân dân mở rộng diện tích để mang lại thu nhập ổn định. Xã cũng sẽ hỗ trợ người dân thành lập tổ hợp tác hoặc HTX để thuận tiện trong việc liên kết.
Thế mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp chính là nền tảng thu hút khách du lịch. Hiện, HTX Ngũ Chỉ Sơn cũng là một trong những điểm đến hấp dẫn của các đoàn khách trong và ngoài nước. Theo Ban giám đốc HTX, Bình Sơn giáp với Sapa (Lào Cai), lại thu hút doanh nghiệp đầu tư du lịch như công trình “cầu kính rồng mây” ở độ cao 2.800m sắp đi vào hoạt động nên thu hút được khách du lịch. Đây sẽ là điều kiện thuận lợi để tạo việc làm, nâng thu nhập cho người dân.
Với giá trị kinh tế cao từ nuôi cá nước lạnh, thời gian tới, HTX sẽ cùng địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho người dân khai thác tiềm năng, nuôi cá hàng hóa đi đôi với đầu tư hệ thống nhà hàng, nhà nghỉ phục vụ khách du lịch tại chỗ.
Nhờ đẩy mạnh phát triển kinh tế, đến nay, xã đã có đường ô tô đến trung tâm, 100% người dân được dùng điện lưới quốc gia, tỷ lệ hộ dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh là 84%. tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo đạt 99,9% và đặc biệt là tỷ lệ hộ nghèo từ 35,6% năm 2015 đã giảm xuống còn 19,2% vào cuối năm 2019.
Để hạn chế tình trạng tái nghèo, thời gian tới, Sơn Bình sẽ tăng cường sự kết nối về hạ tầng, đào tạo nghề, tạo việc làm, hỗ trợ sinh kế, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo. UBND xã cũng xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp tập trung theo hướng sản xuất hàng hóa để người nghèo tiếp cận và tham gia. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức để người nghèo không còn ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước.
Như Yến