Trong giai đoạn 2011 – 2016, Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5,91%. Nhưng đến năm 2017 đạt 6,81% – mức cao nhất trong 10 năm trở lại đây. Xin ông cho biết ý kiến về thành quả ấn tượng này?
Nền kinh tế Việt Nam thực sự có một năm thành công. Các hoạt động kinh tế được thúc đẩy toàn diện, với sự hỗ trợ của một số yếu tố tích cực cả trong và ngoài nước.
Tuy vậy, không thể tự thỏa mãn với những thành quả phát triển tích cực này. Vì vẫn còn những nguy cơ hiển hiện – gồm cả nguy cơ trong nước lẫn quốc tế – có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng cả trong năm nay lẫn trong trung hạn. Bối cảnh trong nước vẫn còn nhiều yếu tố đáng lo ngại, như mức nợ công cao và tỷ lệ nợ xấu đáng kể của hệ thống ngân hàng, cũng như một loạt các yếu tố khó đoán định trên thế giới.
Vì vậy, tôi cho rằng những kết quả tích cực hiện nay là một cơ hội để tiếp tục tăng trưởng và thúc đẩy cải cách nhằm tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và nâng cao tiềm năng tăng trưởng sau này của Việt Nam. Việt Nam nên tiếp tục phát triển theo hướng này khi đang trong thời điểm thuận lợi, cũng như có thể nói khi cơ thể còn khỏe mạnh thì ta nên tích cực vận động hơn.
Việt Nam hiện phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó GDP đầu người vẫn ở mức thấp. WB đã cho biết quan điểm về vấn đề “bẫy thu nhập trung bình” – một nguy cơ đối với Việt Nam. Ông có gợi ý gì để Việt Nam đối phó với nguy cơ này?
Trước hết, phải tiếp tục thực hiện cải cách thể chế, xây dựng cơ chế thị trường, cũng như Nhà nước phải tạo điều kiện để cho phép kinh tế tư nhân phát triển, như tăng cường cải cách trong quản lý đất đai, cải tổ doanh nghiệp nhà nước (DNNN), cải cách thể chế, cải cách ngành ngân hàng. Hoàn thiện, hiện đại hóa thủ tục hành chính và nâng cao hiệu quả của các thể chế nhà nước cũng sẽ góp phần giảm nhẹ chi phí trong môi trường kinh doanh.
Tiếp đó, Việt Nam cần phải có hệ thống hạ tầng chất lượng cao. Tăng trưởng nhanh đang tạo áp lực lên cơ sở hạ tầng. Nhu cầu về điện năng dự báo sẽ tăng 7 – 10%/năm; lưu lượng hàng hóa vận chuyển tăng khoảng 12%/năm.
Vì thế, Việt Nam cần tìm giải pháp đáp ứng được những nhu cầu này trong khuôn khổ nguồn tài chính hiện có để tránh rơi vào trường hợp “nút cổ chai” về cơ sở hạ tầng – tức là chú trọng hơn vào nâng cao hiệu quả đầu tư công, đồng thời tăng cường và khai thác nguồn vốn tư nhân cho phù hợp.
Việt Nam cũng cần có mô hình lồng ghép để đối phó với những vấn đề về khí hậu ở những khu vực có nguy cơ cao như vùng Đồng bằng sông Cửu Long và vùng duyên hải miền Trung, như quy hoạch lồng ghép, xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng thích ứng với điều kiện khí hậu, cũng như chuyển đổi cơ cấu thích ứng với khí hậu cả trong sản xuất và đời sống.
Sau nữa, đó là vấn đề nâng cao trình độ và xây dựng nguồn vốn con người theo kịp thế kỷ XXI. Đây là yếu tố quan trọng để Việt Nam nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị và đối phó với những thách thức mới đi kèm với sự ra đời của các công nghệ mới và cách mạng công nghiệp 4.0.
![]() |
Ông Ousmane Dione - Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB)
Trong năm 2017, Chính phủ và Thủ tướng đã có những nỗ lực lớn trong việc xây dựng một Chính phủ kiến tạo, bảo đảm liêm chính, chú trọng vào mục tiêu phục vụ người dân và DN. Những nỗ lực này đã đem lại những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Ông có ý kiến gì với những chuyển biến cải cách gần đây về thể chế kinh tế ở Việt Nam?
Xây dựng Chính phủ kiến tạo là định hướng đúng để cải cách cho Việt Nam. Trong những năm qua rõ ràng đã có một số tiến bộ, nhưng tôi cho rằng có thể nói vẫn chưa hoàn thành mục tiêu đề ra. Tình hình kinh tế tích cực hiện nay là điều kiện tốt để tăng cường, đẩy mạnh những biện pháp cải cách chủ yếu. Ở đây, tôi xin nêu ra 3 lĩnh vực chính về cải cách cơ cấu.
Thứ nhất, cải cách ngành ngân hàng cần tiếp tục được đẩy mạnh theo hướng Nghị quyết 42 và Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi mới được ban hành. Vấn đề nợ xấu cần tiếp tục được xử lý và cần tăng cường dự phòng tài chính trong một số trường hợp. Đây là yêu cầu quan trọng để loại bỏ nguy cơ bất ổn, nhưng cũng là điều rất cần thiết để tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng phân bổ nguồn vốn một cách hiệu quả trong nền kinh tế.
Thứ hai, trong cải cách khu vực DNNN đã có một số tiến bộ và cần phải duy trì bằng cách tiếp tục thực hiện chương trình cổ phần hóa một cách có hiệu lực, chất lượng, cũng như cần tăng cường công tác điều hành, quản trị DN đối với các DNNN chưa cổ phần hóa.
Thứ ba, cải cách luật pháp, quy chế vẫn là một yếu tố quan trọng. Đây không chỉ là cải cách về luật pháp, mà còn cần các biện pháp nâng cao hiệu quả thực thi, triển khai luật định.
Môi trường kinh doanh của Việt Nam cũng đã có nhiều cải thiện. Theo ông, Việt Nam cần làm gì để quá trình này đẩy mạnh hơn?
Đúng là các chương trình cải cách của Nhà nước đang đi đúng hướng. Nếu những chương trình cải cách này được thực hiện theo trình tự hợp lý, hiệu quả thì sẽ mang lại nhiều cơ hội mới cho Việt Nam.
Để duy trì xu hướng này cần phải có những chính sách hiệu quả và tiếp tục cải cách trên một số phương diện. Dù có bước tiến vững chắc nhưng Việt Nam vẫn cần tiếp tục cải thiện môi trường thể chế trong một số lĩnh vực, như giải thể DN, cung cấp điện năng, bảo vệ nhà đầu tư, đóng thuế, thương mại xuyên biên giới và thành lập DN.
Tiếp tục cải cách để nâng cao chất lượng thể chế và bảo đảm thực thi luật định một cách nhất quán, hiệu quả, công bằng là yêu cầu quan trọng để Việt Nam tạo lập được một môi trường thuận lợi cho đầu tư tư nhân, tăng trưởng, tạo việc làm.
Ông đánh giá thế nào về triển vọng kinh tế của Việt Nam trong năm 2018?
Triển vọng kinh tế năm 2018, theo chúng tôi là khả quan. Nếu không có biến động lớn, chúng tôi dự báo đà tăng trưởng kinh tế cao sẽ được duy trì ít nhất ở mức 6,5%, chủ yếu nhờ tăng sức cầu trong nước và lĩnh vực sản xuất định hướng xuất khẩu.
Triển vọng chung, theo chúng tôi, dù thuận lợi nhưng nguy cơ cũng sẽ có nhiều. Tính trên toàn cầu, chúng tôi nhận thấy đang có sự bất định lớn về chính sách và dự kiến sẽ tiếp tục có sự thu hẹp về thanh khoản.
Vì thế, cần tập trung vào những chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng để nâng cao sức kháng chịu của Việt Nam trước những biến động, cũng như tăng cường cải cách cơ cấu để nâng cao tiềm năng tăng trưởng trong trung hạn.
Lê Thúy ghi