Đây là thông tin được đưa ra từ báo cáo do Viện Năng suất Việt Nam công bố, khảo sát bao gồm 8 ngành kinh tế gồm dệt may, da giầy, nhựa, thép, hóa chất, cơ khí chế tạo, năng lượng, điện, điện tử-tin học. Đây là những ngành kinh tế quan trọng đóng góp vào phát triển kinh tế của đất nước.
Năng lượng dẫn đầu, dệt may bét bảng
Theo báo cáo, trong trong 8 ngành kinh tế nêu trên, ngành năng lượng có mức giá trị gia tăng cao nhất, ước tính trên 350.000 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng của ngành khoảng 6,4%/năm.
Ngành điện, điện tử-tin học có mức giá trị gia tăng cao và tốc độ tăng trưởng cũng rất cao là 38,6%.
Dệt may là ngành có năng suất lao động thấp nhất
Ngành cơ khí chế tạo có mức giá trị gia tăng và tăng trưởng đều tốt. Ngành thép cho thấy mức giá trị gia tăng thấp và tăng trưởng thấp trong giai đoạn vừa qua.
Ngành nhựa và hóa chất có mức giá trị gia tăng không cao nhưng tốc độ tăng trưởng cũng tương đối tốt.
Trong hai ngành sử dụng nhiều lao động, ngành dệt may có giá trị gia tăng cao hơn, nhưng tốc độ tăng trưởng chậm hơn ngành da giày.
Đáng chú ý, trong các ngành công nghiệp được so sánh, nếu tính năng suất lao động bằng giá trị gia tăng trên số lao động thì ngành năng lượng có năng suất lao động rất cao, năm 2015 vào khoảng trên 1 tỷ đồng/người lao động. Song năng suất lao động của ngành cao do có đặc thù dựa vào tài nguyên và gia tăng đầu tư.
Ngành năng lượng trong giai đoạn vừa qua tăng cường vốn quá nhanh, tăng giá trị gia tăng chủ yếu dựa trên tăng cường độ vốn và một phần nhỏ dựa trên tăng lao động. Điều này có nghĩa là giá trị gia tăng được tăng lên hoàn toàn dựa trên tăng yếu tố đầu vào mà không có sự cải thiện về năng suất.
Tương tự như ngành năng lượng, những ngành công nghiệp như thép, hóa chất chủ yếu dựa vào lợi thế khai thác tài nguyên sẵn, còn việc tăng năng suất nhờ đóng góp của đổi mới công nghệ, ứng dụng khoa học và phương thức quản lý hiện đại còn hạn chế.
Trong khi đó, dệt may, da giày- 2 nhóm hàng chủ lực của Việt Nam thuộc nhóm ngành công nghệ thấp có mức năng suất lao động thấp, tương ứng là 76 triệu/người và 74 triệu đồng/người.
Theo ông Nguyễn Phú Cường, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Công Thương), điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam chính là lỗi tư duy, kinh doanh vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, biểu hiện rõ nét nhất là trình độ quản lý còn lạc hậu, chưa bắt với những xu hướng hiện đại của thế giới.
Hầu hết các doanh nghiệp thuộc các ngành đều tụt hậu về công nghệ so với các nước trong khu vực và phụ thuộc và máy móc, thiết bị nước ngoài. Trong khi đó, nguồn vốn lại hạn hẹp nên khả năng đầu tư và chuyển giao công nghệ mới bị hạn chế rất nhiều.
Theo các chuyên gia, đây chính là yếu tố khiến cho các doanh nghiệp không thể nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm, từ đó không thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài.
Khuyến nghị cụ thể từng ngành
Trước những khó khăn về sự tụt hậu công nghệ so với các nước, quy mô doanh nghiệp nhỏ, vốn đầu tư ít, việc hợp tác còn yếu và thiếu, lực lượng lao động đông nhưng chất lượng không cao, theo đó giải pháp chung được Viện năng suất Việt Nam đưa ra đối với các doanh nghiệp ngành công nghiệp của Việt Nam đó là cần tạo môi trường cho doanh nghiệp phát triển về quy mô; khuyến khích phát triển khoa học công nghệ; phát triển nguồn nhân lực cung ứng cho thị trường; ứng dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế và công cụ cải tiến năng suất chất lượng tiên tiến, hiện đại.
Đối với ngành điện, điện tử-tin học, cần chú trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ cho ngành, hình thành các cụm công nghiệp điện tử-tin học.
Đối với ngành cơ khí chế tạo, cần xây dựng chiến lược phát triển ngành cơ khí
Đối với ngành dệt may, da giày, hỗ trợ xúc tiến thị trường bằng nhưng ưu đãi vay vốn phát triển xây dựng thương hiệu, hỗ trợ tìm hiểu thông tin về quy định của các nước nhập khẩu.. Phát triển công nghiệp phụ trợ cho ngành may, da giày để đáp ứng nguyên phụ liệu cho ngành dựa trên các thế mạnh của tỉnh/vùng.
Đối với ngành nhựa, khuyến khích đầu tư đổi mới thiết bị và phát triển công nghệ. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho sản xuất nguyên liệu ngành.
Đối với ngành hóa chất, có chính sách hỗ trợ phát triển công nghệ. Có các giải pháp về thị trường. Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ và bảo vệ môi trường.
Đối với ngành thép, quy hoạch lại phát triển ngành thép, không khuyến khích thành lập mới các doanh nghiệp ngành thép. Nâng cao cải tiến công nghệ, dần dần loại bỏ công nghệ lạc hậu. Thiết lập chính sách phát triển bền vững cho ngành.
Đối với ngành năng lượng, khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo. Cổ phần hóa các tập đoàn, tổng công ty thuộc ngành công nghiệp năng lượng. Tái cơ cấu và cổ phần hóa các tập đoàn và tổng công ty thuộc ngành năng lượng. Trong đó, khuyến khích phát triển khoa học và công nghệ được coi là giải pháp tối ưu cho ngành.
Lê Thuý